Showing posts with label Tăng axit uric máu. Show all posts
Showing posts with label Tăng axit uric máu. Show all posts

Top 10 nguyên nhân gây bệnh Gout


Top 10 nguyên nhân gây bệnh Gout
Dùng thực phẩm chế biến sẵn làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

1. Gia đình có tiền sử người bị Gout thì bạn rất có nguy cơ bị bệnh.

2. Nam giới có nguy cơ bị bệnh Gout nhiều hơn nữ giới.

3. Uống quá nhiều những đồ uống có cồn cũng dễ mắc Gout.

4. Những người có vấn đề về cân nặng dễ bị Gout. Càng những người béo phì thì khả năng mắc bệnh càng cao.

5. Dùng thực phẩm chế biến sẵn làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

6. Những người phải cấy ghép các cơ quan trên cơ thể có nguy cơ bị Gout nhiều hơn những người bình thường.

7. Cơ thể bị nhiễm quá nhiều chì tăng nguy cơ nhiễm Gout.

8. Cơ thể tự sản sinh ra lượng axit uric vượt mức.

9. Một vài loại thuốc làm tăng nguy cơ bị Gout như thuốc lợi tiểu, thuốc chữa bệnh Packinson,thuốc aspirin.

10. Uống vitamin có chứa niacin làm tăng nguy cơ mắc Gout.

Uống cà phê để phòng bệnh gout


Uống cà phê để phòng bệnh gout

Gout là một dạng viêm khớp và thủ phạm gây sưng đau khớp chính là mức axit uric tăng lên trong máu. Căn bệnh này đang gia tăng trên toàn cầu và được xem là mối đe dọa lớn đối với sức khỏe của nam và nữ giới.

Trước đây, các bệnh nhân có nguy cơ bị gout được khuyên là không nên uống cà phê nhưng TS Hyon Choi, công tác tại ĐH British Columbia (Vancouver, Canada) và các đồng nghiệp ở ĐH Y Harvard (Boston, Mỹ) lại đưa ra nhận định ngược lại sau khi tiến hành 1 cuộc khảo sát và theo dõi trong vòng 12 năm.

Cuộc khảo sát với khoảng 50.000 nam giới trong độ tuổi 40 - 75 không có tiền sử bị bệnh gout tham gia đã trả lời các câu hỏi liên quan đến thói quen ăn uống. “Trong vòng 12 năm sau đó, đã có 757 nam giới mắc gout và nguy cơ giảm dần ở những người uống nhiều cà phê. Cụ thể là những người uống từ 4 – 5 tách cà phê/ngày sẽ giảm được 40% nguy cơ; uống từ 6 cốc trở lên sẽ giảm 50 – 60% nguy cơ”, TS Choi cho biết.

Những mày râu uống cà phê lọc hết cafein cũng có mức axit uric thấp hơn trong máu nhưng những người uống trà thì không. Có thể chất chống ôxy hóa mạnh trong cà phê chính là yếu tố tác động tới mức axit uric.

Canh chua bạc hà: Lợi hại khó lường!


Canh chua bạc hà: Lợi hại khó lường!

Tác nhân gây nên chứng gout

Nhiều người nay đã hiểu phần nào về bệnh thống phong (bệnh gout) do tăng chất axit uric trong máu khiến khớp ngón chân, ngón tay bị sưng đau đến độ kêu trời không thấu. Đó là chưa kể đến hậu quả khác như gai cột sống, sỏi thận, bệnh ngoài da... hay thường gặp hơn nữa là tình trạng mệt mỏi, đau không ra đau, bệnh không hẳn bệnh. Cũng có nhiều người đã biết tại sao chất axit uric, một loại phế phẩm từ chuỗi phản ứng thoái biến chất đạm thuộc nhóm purin, lại tăng cao trong máu rồi. Vì không được bài tiết kịp thời và đúng mức nên kết tủa trong khớp, trên đường tiết niệu, dưới da... làm khổ bệnh nhân, như trong trường hợp của những người:

Hoại huyết như sau cơn sốt rét, sau lần chấn thương

Ăn quá nhiều chất đạm từ lòng heo, da gà, cá mòi, lạp xưởng...

Uống quá ít nước lại thêm thói quen nín tiểu trong giờ làm việc

Bị bệnh biến dưỡng như tiểu đường, cường tuyến giáp...

Lạm dụng dược phẩm như thuốc cảm, thuốc corticoid...

Có bệnh trên đường tiết niệu như phì đại tiền liệt tuyến, viêm bàng quang...

Lạm dụng rượu bia.

Nhưng không phải ai cũng rõ là axit uric có thể tăng cao, thậm chí tăng rất cao ngay cả ở người không phạm vào các “trường quy” vừa kể.

Những kết quả vừa cập nhật

Từ nhận xét là không ít bệnh nhân bị tăng axit uric thấy rõ nhưng không hề uống bia, cũng không lạm dụng thịt mỡ, chúng tôi đã tiến hành một số khảo sát lâm sàng với kết quả như sau:

Trong số 20 người tuy cũng có thói quen ăn canh chua nhưng là canh chua măng, hay canh chua lá giang, thay vì bạc hà, thì tỷ lệ tăng axit uric trong máu chỉ là 15%.

Trong số 50 đối tượng có lượng axit uric trong máu cao hơn 7,5 mol (định mức sinh lý tối đa là 5,5 mol) nhưng không uống bia, không lạm dụng thịt mỡ, có 13 người ăn canh chua mỗi tuần tối thiểu 2 lần. Số còn lại, 37 đối tượng, đều có canh chua trong khẩu phần mỗi tuần tối thiểu 4 lần!

Phân tích tiền sử bệnh cho thấy 7 trong 10 trường hợp lên cơn đau như đau cắt ngang khớp kèm theo triệu chứng sưng nóng đỏ xảy ra sau một bữa cơm có canh chua bạc hà.

Trong nhóm thử nghiệm với 30 người có thói quen uống bia và đã bị bệnh gout với xét nghiệm sinh hoá rõ rệt, tất cả đối tượng thường có món canh chua bạc hà trong bữa ăn đều có hàm lượng acid uric cao hơn nhóm không mạnh miệng với món này.

Trị số xét nghiệm của 14 trong số 20 người trước đó có lượng axit uric trong máu trong khoảng 6,5 đến 7,5 mol trở lại bình thường sau hai tuần không ăn canh chua bạc hà mà không cần dùng thuốc.

Trên hai nhóm thử nghiệm trong 10 ngày liên tục, mỗi nhóm với hai mươi đối tượng đều được điều trị bằng Zyloric 200 x 2 viên/ngày, có thể giảm thiểu đến phân nửa lượng thuốc hàng ngày trên nhóm cữ canh chua bạc hà nhưng hiệu năng vẫn tương đồng với nhóm đối chiếu có món canh chua một lần mỗi 2 ngày.

Hai tháng sau khi đã điều trị ổn định, khi kiểm soát lượng axit uric trong máu cho thấy hiện tượng tái phát chỉ xảy ra ở 7 trong số 30 bệnh nhân ăn canh chua bạc hà một cách tiết độ theo kiểu mỗi tuần 1 lần mà thôi.

Lời kết

Canh chua bạc hà rõ ràng là món ăn có mối liên hệ mật thiết với tình trạng tăng axit uric trong máu.

Nhưng nếu phải kiêng món canh chua bạc hà cá bông lau với vị ngọt, chua, cay pha trộn độc đáo thì thà đừng là người... Việt! Ăn món canh chua mà loại bỏ bạc hà thì thà chọn món khác còn hơn! Nhưng chủ động giảm bớt số lần có món canh chua bạc hà trên bàn ăn nếu đã bị bệnh gout, hay khi lượng axit uric đã mấp mé giới hạn bệnh lý, là quyết định vừa chính xác vừa khôn khéo. Nhờ đó bạn vẫn còn cơ hội thưởng thức món canh chua, thay vì đến lúc nào đó vừa phải nhịn đến phát thèm vừa tốn tiền mua thuốc rồi sinh thêm bệnh... tức cành hông!

Theo BS Lương Lễ Hoàng

4 không trong ăn uống của người bị gút



4 không trong ăn uống của người bị gút

Không quên uống nhiều nước là lời khuyên của các bác sĩ dành cho bệnh nhân gút, nhằm nhanh chóng đào thải axit uric - thủ phạm gây các cơn đau. Loại đồ uống được khuyến khích nhất là nước khoáng chứa nhiều bicarbonat.

Những điều nên tránh trong ăn uống:

Không ăn thức ăn nhiều purin trong giai đoạn tiến triển: Chế độ ăn hợp lý của người bị bệnh gút là nhằm giảm lượng acid uric để không bị tích lũy thành tinh thể ở các khớp và các tổ chức mềm. Hết sức hạn chế ăn phủ tạng động vật như gan, lòng, cật, tim, tiết; cá trích, cá mòi, trứng cá; thịt đỏ, thịt muối; phô mai; cua; tôm. Một số thực phẩm thực vật cũng có hàm lượng purin tương đối cao như nấm, đậu hạt các loại.

Không dùng thức uống có cồn và chất kích thích: Các nghiên cứu về khẩu phần ăn uống đều khuyên người bị gút hoặc tăng acid uric máu đơn thuần phải kiêng rượu, bia hơi, vang trắng, sâm banh, bia nâu. Tránh ăn những chất kích thích như ớt, cà phê… Nên tránh các buổi liên hoan tiệc tùng.

Không quên uống nhiều nước: Uống nhiều nước sẽ làm tăng lượng nước tiểu, sẽ đào thải được nhiều acid uric ra ngoài. Nên uống khoảng 2-3 lít/ngày khi đang uống thuốc trị bệnh. Tốt nhất nên uống các loại nước khoáng có nhiều bicarbonat. Nếu không, có thể uống dung dịch natri bicarbonat 3% để kiểm soát huyết thanh, giúp việc đào thải acid uric thuận lợi hơn.

Không uống các thuốc làm tăng acid uric máu: Đó là các thuốc lợi tiểu nhóm thiazide (hypothiazide), nhóm giảm đau, hạ sốt salicilat (aspirin). Tuyệt đối không dùng các thuốc nhóm corticoid (prednisolon, dexamethason…) vì chúng có thể làm giảm đau nhanh nhưng lại làm tăng acid uric máu, đẩy nhanh bệnh sang thể mạn tính.

Ngoài chế độ ăn uống, người bị bệnh gút cũng cần tránh các nguy cơ có thể làm xuất hiện bệnh như: làm việc quá sức, nhiễm lạnh, đi giày quá chật, bị nhiễm khuẩn cấp tính hoặc phẫu thuật.

Gút được xếp vào bệnh của thời đại văn minh. Nó thường gây đau đớn dai dẳng cho người bệnh và là sự báo hiệu nguy cơ bệnh mạch vành, tai biến mạch máu não và bệnh thận. Bệnh gút có thể diễn biến tốt nếu dùng đúng các thuốc điều trị và tuân thủ chế độ ăn hợp lý.

Ăn nhậu nhiều dễ bị goutte

Nhiều người bỗng “nhức đầu” vì khám sức khỏe phát hiện axit uric trong máu tăng cao, nghe nói sẽ dẫn đến bệnh goutte với hình ảnh các khớp ngón tay chân biến dạng. BS Đào Thị Yến Phi - Trung tâm Đào tạo cán bộ y tế TP.HCM - cho biết:

- Thường có hai nguyên nhân tăng axit uric trong máu. Một, do cơ địa bệnh nhân (BN) thận yếu - hoạt động kém, sỏi thận... sẽ dẫn đến giảm thải axit uric. Một số trường hợp do cơ thể gia tăng tổng hợp axit uric nội sinh, ở những người này phần lớn là hoạt động thể lực quá mức. Hai, do chế độ dinh dưỡng - thường gặp ở những người ăn quá nhiều thịt, hải sản... đồng thời uống nhiều rượu bia làm tăng axit uric ngoại sinh.

Nếu axit uric nội và ngoại sinh tăng, cộng với sự giảm thải axit uric qua đường thận thì sẽ làm tăng axit uric trong máu.

Axit uric bình thường trong huyết thanh ở nam giới là <>

* Có phải do... ăn quá nhiều thịt?

- Có thể giải thích một cách đơn giản là purin (được cung cấp nhiều qua các thực phẩm giàu đạm như thịt, cá, gan, cật, đậu đỗ...) đưa từ ngoài vào cơ thể chuyển thành axit uric và được thải qua đường thận.

Thức ăn chứa nhiều axit uric là: phủ tạng động vật, thịt nạc heo, chó, bò..., các loại hải sản như mực, tôm... và một số loại cá, đặc biệt là cá nhiều nạc như cá sông, cá hồi, cá đuối...

Một số loại thực phẩm nguồn gốc thực vật không chứa purin nhưng lại có tác dụng làm tăng tổng hợp axit uric nội sinh - đó là nấm, măng, đậu, giá. Các loại rượu bia, thức uống có cồn đều làm giảm thải axit uric qua thận. Đặc biệt một số loại bia sử dụng men bia có nguồn gốc từ nấm thì chứa nhiều purin ngoại sinh. Cà phê, chè có những chất oxy hóa cũng sẽ làm tăng sự tạo axit uric.

Ăn bao nhiêu sẽ làm tăng axit uric còn tùy thuộc khả năng thải của thận. Theo khuyến cáo của Viện Dinh dưỡng quốc gia, mỗi ngày nên ăn 1 gam chất đạm/kg cân nặng. Ví dụ một người nặng 60kg nên ăn khoảng 60 gam chất đạm/ngày, trong đó gạo cung cấp khoảng 50% , còn lại 30 gam đạm được cung cấp qua khoảng 150 gam thịt, cá, đậu đỗ... Nhưng đa số người mình ăn quá nhiều thịt (khoảng 400 gam) trong tiệc tối, bữa nhậu... kèm theo 2 - 3 lon bia càng làm tăng nguy cơ.


Hai bàn chân bị goutte (Ảnh: KIM SƠN, TTO)

* Tăng axit uric đến mức độ nào, bao lâu sẽ dẫn tới bệnh goutte?

- Bệnh goutte thường được chia làm bốn giai đoạn:

1 - Giai đoạn tăng axit uric mà không có triệu chứng. Trong những người tăng axit uric này chỉ 5% là chuyển thành goutte. Đa số do ăn uống không hạn chế. Còn những người điều chỉnh chế độ ăn uống tốt thì khoảng 30 năm sau vẫn chưa thấy xuất hiện cơn goutte cấp.

2 - Giai đoạn viêm khớp cấp do cơn goutte cấp: BN đau ở một khớp, đa số là khớp ngón chân cái, đau vào khoảng 2 - 3 giờ sáng, đau buốt dữ dội giống như ngâm trong nước đá lạnh. Khi cơn đau bắt đầu giảm thì BN thấy lạnh run do sốt cao. Buổi sáng bớt đau, thấy giảm nhưng 2 - 3 giờ đêm sau lại tái phát. Các cơn đau này tái phát trong khoảng hai tuần, sau đó BN thấy chỗ đau bị ngứa, tróc da, rồi khỏi hoàn toàn, không để lại di chứng.

3 - Giai đoạn ngừng tiến triển - người bệnh không thấy có vấn đề gì cả... Giai đoạn này khoảng 10 năm.

4 - Giai đoạn goutte mãn: có suy thận, sỏi thận, có biến dạng ở khớp, lúc đó xuất hiện ở nhiều khớp nhỏ như khớp bàn, khớp ngón chân và tay. Nếu để yên thì không đau, cử động thì đau và cứng khớp.

Đối với phụ nữ thì rất hiếm gặp, chỉ vào độ tuổi mãn kinh.

* Xin cảm ơn bác sĩ!

KIM SƠN thực hiện

Kiêng cữ nhiều thứ

Bệnh goutte cấp thường gặp ở nam giới trên 40 tuổi và nó thường khởi phát sau một bữa ăn nhiều thịt và uống nhiều rượu bia hoặc sau một đợt dùng lâu ngày một loại thuốc nào đó như aspirine, thuốc lợi tiểu...

Để phòng bệnh, nên khám, xét nghiệm 6 tháng/lần. Phát hiện lúc vừa mới tăng axit uric máu thì điều chỉnh chế độ ăn uống và vận động để đảm bảo không tăng axit uric, tức kéo dài giai đoạn 1, không tiến qua giai đoạn 2. Nếu đã xuất hiện cơn goutte cấp phải khám và theo dõi lâu dài ở các khoa khớp. Đối với bệnh goutte mãn thì theo dõi điều trị kéo dài theo phác đồ của chuyên khoa.

Không thể điều trị khỏi hoàn toàn nếu không điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt. Chế độ ăn: nên giảm thịt cá, óc heo, óc bò, nấm, măng..., không uống rượu bia, cà phê, chè. Cần kiêng ăn chua, kể cả rau quả trái cây có vị chua, vì sẽ làm tăng lắng đọng axit uric trong thận. Có người sau một đêm nhậu sáng ra để tỉnh người lại uống một viên vitamin C liều cao càng làm tăng nguy cơ ứ đọng axit uric trong máu.

Theo Tuổi trẻ Online

Axid Uric có phải hoàn toàn có hại?

Hầu hết tất cả các bệnh nhân bị bệnh thống phong (goutte) đều có acide urique tăng cao trong máu (hyperuricémie). Ngược lại, chỉ có 10% những người với tăng axit uric-huyết là bị bệnh thống phong mà thôi. Nhưng, điều đặc biệt là, vài tác giả đã khám phá ra rằng axit uric có thể có những tác dụng thuận lợi.

Kích thích lên não bộ

Vào khoảng giữa những năm 50, người ta đã nhận thức rằng axit uric có một cấu trúc tương tự với caféine, điều này đã làm khích động trí tưởng tượng. Suốt trong những năm 60 và 70, nhiều bài báo, báo cáo rằng những người có tăng axit uric-huyết (hyperuricémie) là thông minh hơn và nhìn toàn bộ có hiệu quả hơn. Nhưng nhiều trong số những công trình nghiên cứu này được tiến hành trên một số lượng nhỏ người tham dự và có thể có nhiều thiên lệch, như tình trạng xã hội-kinh tế.Tuy vậy, axit uric đã được xem như là một chất phần nào có tác dụng kích thích lên não bộ.

Chống oxy hóa

Axit uric cũng đã gợi sự tò mò do những tính chất chống oxy hóa của nó. Từ những công trình nghiên cứu dịch tễ học cho thấy rằng, những người có một nồng độ axit uric thấp, có nguy cơ mắc bệnh Alzheimer, bệnh Parkinson và cả bệnh xơ cứng rải rác (sclérose en plaques) được giảm. Những dữ kiện mới đây đã chỉ cho thấy rằng hiệu quả này là do axit uric làm chậm sự vượt qua hàng rào huyết-não (barrière hémato-encéphalique), hơn là do một tác dụng thật sự chống oxy hóa (action antioxydante). Chưa có một công trình nghiên cứu nào cho thấy tác dụng thuận lợi này của axit uric lên não bộ, những hướng nghiên cứu vẫn được tiếp tục theo đuổi.

Không phải là một yếu tố nguy cơ tim mạch?

Từ giữa những năm 50 đã nổ ra một cuộc tranh cãi về một mối liên hệ khả dĩ giữa tăng axit uric-huyết với những bệnh tim mạch. Framingham Heart Stuydy group vào năm 1999 đã kết luận rằng tăng axit uric-huyết không phải là một yếu tố nguy cơ tim mạch. Một xác nhận phần nào được xét lại cuối tháng 10 năm 2008, bởi New England Journal Medicine, trong một bài báo kết luận về sự thiếu sót các dữ kiện để xác lập những khuyến nghị trong điều trị tăng axit uric -huyết. Và cho rằng có đủ lý lẽ để tiến hành những nghiên cứu lâm sàng mới về chủ đề này.

Mối tương quan giữa tăng axit uric-huyết và các bệnh tim mạch

Những công trình nghiên cứu dịch tễ học bị trở nên rắc rối bởi sự kiện là những người bị tăng axit uric-huyết thường có một loạt những yếu tố nguy cơ tim mạch được xác định rõ. Ví dụ, nơi các phụ nữ sau thời kỳ mãn kinh, nồng độ axit uric gia tăng, nhưng có thể đó chỉ là một bằng chứng của sự giảm những nồng độ œstrogène (những hormone này làm dễ axit uric-niệu). Đối với nhiều tác giả, mối tương quan giữa tăng axit uric-huyết và các bệnh tim mạch một phần lớn có thể được gán cho những yếu tố khác như sự sử dụng các thuộc lợi tiểu, sự nhàn rổi không hoạt động hay uống quá nhiều rượu.

Axit uric cũng can dự trong sự xuất hiện của cao huyết áp

Một giả thuyết có thể chấp nhận được là axit uric cũng can dự trong sự xuất hiện của cao huyết áp (vậy nó không phải là một yếu tố nguy cơ độc lập). Những công trình nghiên cứu khác nhau đã cho thấy rằng những người bị tăng axit uric-huyết có một nguy cơ gia tăng phát triển một cao huyết áp trong 5 năm. Dầu sao điều này chỉ cho thấy rằng tăng axit uric-huyết không phải là một hậu quả khả dĩ của cao huyết áp. Ngoài ra, tăng axit uric-huyết thường xảy ra trong cao huyết áp nguyên phát (hypertension essentielle) hơn là trong cao huyết áp thứ phát (hypertension secondaire). Ở loài chuột, người ta đã có thể cho thấy sự xuất hiện của cao huyết áp sau khi cản uricase, enzyme phá hủy axit uric.

Những tranh cãi chưa có hồi kết

Sự hiện diện của những thương tổn thận có thể là một yếu tố giải thích sự xuất hiện cao huyết áp trong trường hợp tăng axit uric-huyết. Cách nay ít lâu, người ta đã đính chính rằng một tình trạng tăng axit uric-huyết không triệu chứng (hyperuricémie asymptomatique) có thể gây nên những thương tổn thận, nhưng một công trình nghiên cứu mô học mới đây đã cho thấy rằng, ở loài chuột, những thương tổn thận có thể xuất hiện sau khi cho một chất cản uricase. Vậy những lời khuyến nghị về sự hữu ích của điều trị tăng axit uric-huyết còn có thể tiến triển nhiều trong tương lai.

Tăng axit uric máu

Tang axit uric mau co the gay ra hang chuc benh 
Tăng axit uric máu có thể gây ra hàng chục bệnh
Ngoài việc gây bệnh gút , tình trạng tăng axit uric máu có thể gây tổn thương cho nhiều cơ quan như mạch máu, tim, mắt, màng não, cơ quan sinh dục...
Nếu như cách đây 2 thập niên, tình trạng tăng axit uric trong dân Việt Nam ước tính chỉ 1%-2% thì hiện nay, con số đó đã cao hơn nhiều. Một khảo sát của Phòng Tư vấn Sức khỏe Saigon Times năm 2004 cho thấy, trong số 50 bệnh nhân đến khám vì những nguyên nhân khác nhau, có đến 60% bị tăng acid uric máu. Ước tính có khoảng 8 triệu người Việt Nam lâm vào tình trạng này.
Bác sĩ Thái Thị Hồng Ánh, Trưởng khoa Nội cơ xương khớp Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, khẳng định, tình trạng tăng axit uric máu trong cộng đồng hiện khá phổ biến. Bằng chứng là mỗi ngày bệnh viện tiếp nhận điều trị vài ca bệnh gút (biểu hiện thường gặp của tăng axit uric), trong khi trước đây chỉ có vài chục ca/năm.
Bác sĩ Lương Lễ Hoàng thuộc Phòng Tư vấn Sức khỏe Saigon Times cho biết, axit uric là phế phẩm của quá trình phân hủy chất đạm purin và được tống xuất khỏi cơ thể qua đường tiểu. Việc tăng nhập purin hoặc giảm xuất axit uric đều dẫn đến tăng axit uric trong máu. Có hai yếu tố thuận lợi dẫn đến điều này. Đầu tiên là yếu tố di truyền, một số đối tượng có thể tạng dễ bị rối loạn chức năng phóng thích axit uric qua đường tiểu. Thứ nhì là yếu tố môi trường, phổ biến nhất là việc ăn uống quá nhiều chất đạm purin, có trong da gà, đồ lòng, giò heo, nạm bò, lươn, cá biển (đặc biệt là cá mòi, cá nục), thịt rừng (đa số), lạp xưởng. Theo nhiều chuyên gia dinh dưỡng, purin trong thực phẩm không trực tiếp gây hại mà chỉ trở thành độc chất khi ăn kèm với mỡ động vật. Cơ chế gây bệnh ở đây là chất béo ngăn cản quy trình bài tiết axit uric qua đường tiểu.
Khi phân tích thói quen của những người có tăng axit uric máu, bác sĩ Hoàng nhận thấy họ có 2 thói quen tai hại, đó là uống ít nước (không đủ 1,5 lít/ngày) và nhịn tiểu (bận làm việc). Điều này có thể lý giải phần nào hiện tượng dù không sử dụng nhiều thực phẩm có purin, nhưng họ vẫn bị tăng axit uric.
Theo bác sĩ Hồng Ánh, việc tăng axit uric máu có thể gây tổn thương ở nhiều cơ quan. Nếu chúng kết tủa và lắng đọng ở tim mạch thì gây viêm mạch máu, viêm màng ngoài tim; ở vùng đầu gây ra viêm kết mạc, viêm mống mắt, viêm tuyến mang tai, viêm màng não. Nếu kết tủa ở vùng sinh dục, các tinh thể uric gây viêm tinh hoàn, viêm tuyến tiền liệt. Ở thận, chúng gây sỏi urat...
Tuy nhiên, phổ biến nhất vẫn là bệnh gút, do axit uric kết tủa thành sạn trong khớp, dẫn đến hiện tượng viêm khớp (sưng, nóng, đỏ, đau) tái phát nhiều lần trong suốt đời. Khi mới bị, cơn đau rất thưa, cách 6 tháng, 1-2 năm hay hơn nữa. Nhưng sau vài năm, cơn đau sẽ ngày càng gần lại, dẫn đến biến dạng khớp ở bàn tay, bàn chân... Theo một nghiên cứu tại Hà Lan trong năm qua, người ta ghi nhận những bệnh nhân gút tuổi trung niên thường dễ bị tăng huyết áp (nguy cơ 43%), tăng cholesterol trong máu (5%) và tiểu đường (hơn 50%). Vì thế, các chuyên gia về khớp có một nhìn nhận mới: gút là dấu hiệu sớm của các bệnh tim mạch!
Không phải rượu nào cũng làm tăng nguy cơ bị gút
Đó là ý kiến của các chuyên gia y học Mỹ tại Bệnh viện đa khoa Massachusetts. Họ khảo sát 47.000 nhân viên y tế nam trong vòng 12 năm, trong số đó có 730 người phát bệnh gút và nhận thấy, những ai uống 2 lon bia hay nhiều hơn mỗi ngày thì có nguy cơ bị gút gấp 2,5 lần người không uống. Dùng rượu mạnh cũng làm tăng nguy cơ, nhưng chỉ ở mức 1,6 lần. Những ai uống rượu vang với mức độ vừa phải thì không có nguy cơ bị gút.
Người đứng đầu nghiên cứu, tiến sĩ Hyon Choi, nói: “Điều này gợi ý rằng một vài chất trong bia, rượu đã đóng vai trò gây bệnh gút”. Theo ông, “thủ phạm” chính có thể là phức hợp purin, có rất nhiều trong bia và nhất là rượu. Bàn luận về nghiên cứu này, tiến sĩ Qing Yu Zeng thuộc Đại học Y khoa Shantou (Trung Quốc) nói: “Nguyên nhân gây ra gút liên quan đến những yếu tố di truyền và môi trường. Nhưng sự gia tăng tần suất của bệnh hiện nay thì chủ yếu là do yếu tố môi trường, trong đó phổ biến nhất là việc uống nhiều thức uống có cồn”.
Giảm đau trong bệnh gút bằng rau trái
Người có bệnh gút phải uống thuốc giảm đau suốt đời, nhưng dù thuốc có tốt đến mấy thì cũng gây ra tác dụng phụ. Để ngăn ngừa điều này, người ta có thể dùng đến một số rau trái có tác dụng giảm đau. Hàm lượng chất giảm đau trong rau trái tuy không đủ để gây tác dụng phong bế cảm giác đau một cách tức thời, nhưng nếu biết cách áp dụng cùng lúc với dược phẩm thì sẽ hỗ trợ tác dụng giảm đau bằng cơ chế cộng hưởng.
Đứng đầu là cam, mận Đà Lạt, chanh, đậu Hà Lan, cà chua, sơ-ri, nấm mèo, hoặc nếu có điều kiện hơn thì dùng nho, táo tây, nấm đông cô. Theo các chuyên gia dinh dưỡng Ấn Độ, hai thức ăn rất tốt cho người bị gút là dưa leo và giấm. Món dưa leo xắt lát trộn dầu giấm với chút củ hành và tỏi, nêm bằng muối tiêu có thêm chút mật ong (theo đúng công thức của ngành y học cổ truyền Ấn Độ Ayurveda) nên luôn có trên bàn ăn. Dưa leo và giấm có tác dụng ngăn chặn phản ứng thoái biến chất đạm purin, đồng thời làm tăng bài tiết axit uric.
Nếu chỉ chọn một dạng thực phẩm đóng vai trò chủ chốt trong chế độ dinh dưỡng của người bị gút thì khoai tây là số một! Con người đã có kinh nghiệm dùng khoai tây cho người bị viêm khớp từ thời thượng cổ. Bệnh nhân gút nên tập ăn mỗi ngày vài củ khoai tây luộc vừa chín (tránh luộc quá lâu vì làm thất thoát vitamin C).
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Chứng tăng axít uric máu                            
Chứng tăng axit uric máu (trên 416 mmol/l) thông thường gặp ở người cao tuổi, tuy nhiên thỉnh thoảng gặp ở những lứa tuổi khá. Trước đây, người ta cho rằng, tăng axit uric máu chỉ gặp ở người mắc bệnh gút (gout), nhưng thực ra, chứng này còn có thể xuất hiện trong một số bệnh khác nhau.
Bệnh gút là một gệnh làm tăng axit uric máu và thường gặp nhất trong nhóm bệnh khớp. Hiện nay, một số tuyến cơ sở còn ít biết về bệnh này. Tăng axit uric máu là do rối loạn chuyển hoá purine. Bình thường axit uric được tạo ra trong quá trình chuyển hoá các axit nhân của mọi tế bào trong cơ thể và được đào thải ra ngoài chủ yếu bằng nước tiểu. Ở người bình thường, hai quá trình tạo ra và đào thải axit uric luôn luôn được cân bằng và duy trì ở mức từ 143 - 416 mmol/lít. Vì một lý do nào đó, quá trình chuyển hoá purine bị rối loạn sẽ gây tăng axit uric trong máu.
Ai có thể bị tăng axit uric máu?
- Những người đã và đang mắc bệnh gút
- Những người nghi ngờ mắc bệnh gút, gồm có các triệu chứng viêm, đau cấp tính các khớp như: khớp gối, khớp ngón chân cái, khớp cổ chân... cũng cần lưu ý rằng có một số trường hợp tuy mắc bệnh gút nhưng chưa tăng axit uric máu, cần xét nghiệm nhiều lần mới phát hiện được.
- Người bị sỏi thận.
- Người suy thận mạn tính.
Đó là những loại bệnh có khả năng làm tăng tổng hợp và giảm thải axit uric qua đường thận.
Điều trị
- Người đang dùng hay đã dùng thuốc lợi tiểu loại Thiazid hay loại Furosemid cũng dễ bị tăng axit uric. Các loại này chỉ làm tăng axit uric máu trong khi dùng thuốc và sau một thời gian ngắn dùng các loại thuốc này, do đó không cần can thiệp làm giảm axit uric máu.
Không phải tất cả các trường hợp tăng axit uric máu đều phải điều trị. Có hơn 90% các trường hợp tăng axit uric máu đơn thuần và chỉ có khoảng 5 - 10% có biểu hiện lâm sàng bệnh gút và một số bệnh khác. Những loại bệnh sau đây cần điều trị làm giảm axit uric máu:
- Bệnh gút có sạn dạng urat.
- Bệnh gút có biến chứng gây suy thận cấp.
- Sỏi đường tiết niệu dạng urat (sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang, sỏi niệu đạo).
Như vậy, khi xét nghiệm máu thấy có hiện tượng tăng axit uric (trên 416 mmol/l) cần tìm hiểu các nguyên nhân có liên quan đến chứng tăng axit uric máu để loại dần và có hướng điều trị thích hợp.
Hiện nay thuốc dùng cho điều trị chứng tăng axit uric máu khá dồi dào nhưng điều quan trọng là phải chẩn đoán đúng bệnh và có chỉ định thích hợp mới đưa lại hiệu quả. Ngoài việc khám, chẩn đoán đúng và cho điều trị đúng phác đồ thì ăn uống cũng rất cần được quan tâm, bởi vì có những loại thực phẩm làm tăng lượng axit uric máu một cách đáng kể.
PGS. TS. BS: BÙI KHẮC HẬU

Axit Uric
Axit uric là sản phẩm chuyển hóa proteins. Axit Uric sẽ tích tụ trong máu khi quá dư thừa hoặc khi bài tiết kém qua nước tiểu.
Tăng axit uric là nguyên nhân gây bệnh Gút.
NGUYÊN TẮC CỦA CHẾ ĐỘ ĂN KIÊNG
1. Giảm thức ăn sản sinh axit uric
Tránh ăn:
·         Nội tạng động vật: món ức cừu, bê, bầu dục (cật), gan, óc động vật, lòng lơn, tim và lưỡi động vật.
·         Thịt lợn ướp
·         Thịt sấy
·         Một số loại cá: cá mòi, cá hộp, cá trồng, cá hồi song, cá chép, cá chó, cá thu, cá ngừ,
·         Các loài thân mềm: sò huyết, ốc sên, mực, ốc
·         Các loài thân giáp: cua, tôm và tôm hùm.
Cần giảm ăn thịt
Không loại rau nào gây tăng axit uric bởi vì chất purin trong rau quả không chuyển hóa thành axit uric.
2. Tăng bài tiết nước tiểu: Bài tiết nước tiểu càng tăng thì axit uric lọc qua thận càng tốt.
Cần uống nhiều nước (2 đến 3 lít/ngày)
3. Tránh ăn các loại thức ăn gây cơn Gút cấp:
Một số loại thức ăn không mang axit uric nhưng thông qua cơ chế phức tạp của cơ thể chúng ta có thể gây ra những cơn Gút cấp:
    Rượu (chất cồn)
    Sô cô la, nấm
    Các loại mỡ nói chung
Chế độ ăn trong bệnh Gút (tăng axit uric)
Sử dụng thức ăn ít chứa nhân purin như ngũ cốc, các loại hạt, bơ, mỡ, đường, trứng, sữa, phomat, rau quả. Hạn chế thực phẩm thịt, cá, hải sản, gia cầm, óc, gan, bầu dục, đậu đỗ.
* Bỏ rượu, thức uống có rượu, bia, cà phê, chè.
* Không giảm cân quá nhanh cho người béo quá mức (cần giảm từ từ).
* Uống đủ nước (nhưng không dùng cà phê, chè).
Thực đơn mẫu cho bệnh nhân bị Goutte cấp tính.
- Tổng năng lượng đưa vào: 1600 kcal/ngày, cho người nặng 50 kg.
- Đạm 15% (0,8g/kg) = 40g = 160kcal
- Chất béo: 20% = 35g = 315 kcal
- Bột - đường: 65% = 300g="1200" kcal
- Rau quả: tự do
Thực đơn lâu dài cho bệnh Goutte
Như chế độ thông thường nhưng cần lựa chọn thức ăn; hạn chế thức ăn nhiều
purin; protein không quá 1g/kg cân nặng. Như vậy thì đạm động vật và đậu đỗ
không nên quá 100 gam/ ngày.
Hàm lượng purin trong 100g thức ăn có thể tham khảo như sau:
Nhóm I (0-15 mg)
Nhóm II (50-150mg)
Nhóm III (trên 150 mg)
- Ngũ cốc
- Bơ, mỡ
- Đường
- Trứng
- Sữa
- Phomat
- Rau, quả

- Hạt
- Thịt
- Cá
- Hải sản
- Gia cầm

- Đỗ, đậu
-óc
- Gan
- Bầu dục
- Cá sarrdin
- Nước dùng thịt
- Nấm

- Măng tây
 Nhóm IV: Thức uống có khả năng gây đợt Goutte cấp
- Rượu, thức uống có rượu
- Bia (biacó purin)
- Cà phê, chè (có chứa methyl purin khi bị oxy hoá sẽ tạo thành methyl acid uric)
Nguồn: Viện Dinh dưỡng

Axit uric trong máu cao làm tăng nguy cơ tử vong ở người trung niên
Axit uric là chất làm phá hủy các hợp chất từ nitrogen, và thường được thải ra trong nước tiểu. Lâu nay, mọi người vẫn biết rằng axit uric được phát hiện với khối lượng lớn trong khớp của những người bị bệnh gút. Hiện nay, các nhà khoa học cho biết axit uric có thể còn là một tín hiệu nguy hiểm phát ra từ các tế bào bị tổn thương gây ra bệnh viêm nhiễm và phản ứng miễn dịch mạnh.
Nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập dữ liệu trên 42.000 nam giới và 49.000 phụ nữ ở tuổi trung bình là 51. Tất cả đều có kết quả kiểm tra sức khỏe từ năm 1994 đến cuối năm 2003. Lượng axit uric cao – khoảng 7mg/delicit – phát hiện ở 40% nam và 11% nữ. Trong thời gian theo dõi là 8,2 năm, 5.427 người đã chết và 1.151 trong số những người đã chết là do bệnh tim mạch.
Trong số những người tham gia nghiên cứu, một lượng lớn axit uric có tác động đáng kể tới nguy cơ tử vong vì bệnh tim mạch, đột quỵ và suy tim. Lượng axit uric trong máu cao còn có tác động mạnh hơn gây rủi ro tử vong đối với những người bị huyết áp cao và tiểu đường. Hiện nay nhóm nghiên cứu muốn tìm hiểu liệu lượng axit uric trong máu cao có phải là nguyên nhân dẫn đến giai đoạn phát triển ban đầu của một số bệnh hay không.

Thế Giới Yêu Xe

Lượt xem

hit counters hit counter supply chain management
Bí quyết sống khỏe. Powered by Blogger.
 
© Copyright 2013 Bí Quyết Sống Khỏe